Banner

Người tham gia tố tụng gồm những ai

Khái niệm người tham gia tố tụng hình sự

 Luật tố tụng hình sự Đức không có định nghĩa về người tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các đối tượng tham gia vào quan hệ tố tụng để giải quyết vụ án đều là chủ thể tham gia tố tụng. Tùy theo từng loại người có những vai trò khác nhau trong tố tụng hình sự mà pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của họ phải tham gia vào giải quyết vụ án. Trong phạm vi bài viết này, không giới thiệu tất cả các chủ thể tham gia tố tụng mà chỉ đề cập một số người tham gia tố tụng, là đối tượng trung tâm của tố tụng hình sự  như bị can, bị cáo, người bị hại và người đại diện bảo vệ quyền lợi cho họ,  người có  quyền, nghĩa vụ pháp lý tham gia tố tụng như người giám định, người làm chứng nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án khách quan, đúng đắn.

Khác với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là những chủ thể đại diện cho công quyền, người tham gia tố tụng hình sự là những người có quyền, lợi ích liên quan đến vụ án, hoặc có nghĩa vụ tham gia để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án thông qua việc cung cấp chứng cứ, đưa ra các yêu cầu, lập luận về tội phạm và người phạm tội. Trong vụ án hình sự có nhiều người tham gia tố tụng, mỗi loại người tham gia tố tụng có vị trí, quyền và nghĩa vụ khác nhau trong quá trình tố tụng hình sự.

Luật tố tụng hình sự quy định quyền và nghĩa vụ của từng loại người tham gia tố tụng tùy theo từng vị trí, vai trò khác nhau trong tố tụng hình sự. Những quyền và nghĩa vụ tố tụng phải được người tham gia tố tụng, Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện nghiêm chỉnh, đồng thời nó cũng là cơ sở để người tham gia tố tụng bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trogn quá trình giải quyết vụ án

Người bị tình nghi, bị can, bị cáo

Theo quy định tại Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự thì bị can là người đã có quyết định truy tố, bị cáo là người đã có quyết định đưa ra xét xử. Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Đức và các Luật cơ bản quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của người bị tình nghi, bị can, bị cáo (gọi tắt là bị can, bị cáo), đảm bảo họ không bị đối xử như đối tượng của trấn áp hình sự. Các quyền cơ bản của công dân đều được Bộ luật tố tụng hình sự quy định cụ thể và chặt chẽ. Trong các giai đoạn tố tụng, bị can, bị cáo có quyền được trình bày ý kiến, khai báo, chỉ ra các tình huống có lợi cho sự biện hộ liên quan đến tội trạng của mình và bác bỏ mọi nghi ngờ chống lại mình (Điều 136). Bị can, bị cáo có quyền tự chọn người bào chữa, có quyền có mặt trong quá trình thu thập chứng cứ khác (bị hạn chế trong giai đoạn tiền xét xử), làm đơn yêu cầu  thu thập chứng cứ, tự mời nhân chứng và các chuyên gia giám định, phản đối, từ chối thẩm phán, quyền kháng cáo phúc thẩm, yêu cầu phiên dịch nếu không hiểu được ngôn ngữ chính thức hoặc không tự mình trình bày bằng ngôn ngữ đó được. Về trình tự, thủ tục, bị can, bị cáo có quyền tham gia một cách tích cực vào tiến trình tìm ra sự thật về vụ án bằng cách đặt câu hỏi, kể cả cho các nhân chứng và chuyên gia giám định, đưa ra đề nghị hay lời khai (Điều 257, 258 ), yêu cầu thu thập thêm bằng chứng (Điều 244, 245, 246). Một số quyết định nhất định chỉ có bị can, bị cáo mới được thực hiện như quyền giữ im lặng, không khai báo dẫn đến tự buộc tội chính mình và quyền quyết định có kháng cáo hay không. Bị can, bị cáo có thể từ chối trả lời câu hỏi. Trường hợp bị can, bị cáo quyết định khai báo thì lời khai của họ chỉ có thể sử dụng làm chứng cứ khi họ không bị cưỡng bức hay lừa gạt. Pháp luật nghiêm cấm việc cảnh sát, công tố viên hay thẩm phán ở giai đoạn tiền xét xử tìm mọi cách buộc bị cáo phải khai báo trái với ý nguyện trong quá trình thẩm vấn. Điều 136a BLTTHS quy định các phương pháp bị cấm khi hỏi cung bị can, bị cáo là đối xử tàn tệ, gây mệt mỏi, can thiệp về thể chất, sử dụng thuốc, hành hạ, lừa dối, thôi miên, đe doạ bị can bằng những biện pháp không được pháp luật cho phép như đưa ra lời hứa hẹn về những thuận lợi không được pháp luật quy định, hoặc thực hiện các biện pháp gây ảnh hưởng tới trí nhớ hoặc khả năng hiểu của anh ta. Những lời khai có được do vi phạm điều cấm sẽ không được sử dụng, ngay cả khi bị can, bị cáo đồng ý việc sử dụng chúng.

Người  bào chữa

Điều 137 Bộ luật tố tụng hình sự Đức quy định  bị can, bị cáo có thể yêu cầu luật sư bào chữa tại bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng nhưng tối đa không quá ba người. Luật sư có nghĩa vụ hành động trong khuôn khổ pháp luật, tôn trọng sự thật khi đưa ra thông tin trước Toà, không để khách hàng của mình trốn tránh pháp luật và không được tự mình giả mạo chứng cứ hoặc giúp đỡ khách hàng của mình giả mạo chứng cứ. Tuy nhiên, không giống như Công tố viên,Luật sư không có nghĩa vụ hành động một cách khách quan, do đó, họ chỉ cần đưa ra những chứng cứ và những luận điểm có lợi cho khách hàng và trợ giúp khách hàng trong việc đòi hỏi quyền lợi của khách hàng.

Luật sư bào chữa tham gia tố tụng theo yêu cầu của bị can, bị cáo hoặc trong trường hợp chỉ định. Điều 140 Bộ luật tố tụng hình sự quy định các trường hợp người bào chữa phải bắt buộc tham gia, đó là:

1. Trường hợp bị cáo bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm tại Toà án khu vực hoặc Toà án cấp trên;

2. Bị can, bị cáo bị truy tố về một tội phạm nghiêm trọng, việc xét xử có thể dẫn đến lệnh cấm làm một công việc nhất định;

3. Bị can, bị cáo đã bị giam giữ trong thời gian ít nhất là 3 tháng theo quyết định của Toà án và không trả tự do ít nhất là 2 tuần trước khi mở phiên toà xét xử;

4. Bị can, bị cáo đang trong quá trình Toà án xem xét kết luận về tình trạng tâm thần;

5. Bị can, bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam hoặc trường hợp có quyết định thay đổi luật sư tham gia tố tụng.

Người làm chứng

Người làm chứng được quy định thành một chương riêng (chương VI) trong Bộ luật tố tụng hình sự Đức. Bất kỳ ai cũng có thể là nhân chứng, trừ bị cáo và đồng phạm.Chứng cứ nghe nói lại có thể được thừa nhận nhưng phải được thẩm tra một cách thận trọng. Người làm chứng có 3 nghĩa vụ chính:  Ra trình diện trước Công tố viên hoặc Thẩm phán; Làm chứng một cách trung thực (nếu không có đặc quyền từ chối làm chứng) và  xác nhận lời làm chứng của mình bằng cách tuyên thệ trước Thẩm phán (nếu không thuộc trường hợp ngoại lệ không phải tuyên thệ). Nếu người làm chứng vắng mặt không có lý do chính đáng, họ sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật. Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự quy định hậu quả của việc người làm chứng vắng mặt. Họ sẽ phải chịu trách nhiệm đối với chi phí do việc vắng mặt gây ra, đồng thời phải chịu một khoản tiền phạt bắt buộc. Tuỳ từng trường hợp mà họ có thể bị tạm giam hoặc cưỡng chế ra làm chứng lần thứ hai trước Toà.

Chuyên gia giám định

Chuyên gia giám định được Toà án chỉ định để chuẩn bị chứng cứ liên quan đến các chi tiết nhất định (ví dụ như nồng độ cồn trong máu, khả năng nhận thức). Chuyên gia giám định phải có hiểu biết sâu về một lĩnh vực (ví dụ như tâm lý, hoá học) hoặc có các thiết bị chuyên dụng. Chuyên gia giám định thực hiện giám định theo hướng dẫn của thẩm phán (Điều 78), Công tố viên hoặc cảnh sát. Anh ta phải được Cơ quan công tố hoặc Thẩm phán mô tả rõ ràng, chính xác về các yêu cầu giám định, đặc biệt là có khái niệm chính xác về các câu hỏi thu thập chứng cứ mà anh có nghĩa vụ phải trả lời khi được hỏi. Chuyên gia giám định phải đựơc thông tin càng sớm càng tốt về các tình tiết liên quan đến nhiệm vụ giám định và nếu thấy không đầy đủ thông tin thì phải đề nghị Công tố viên hoặc Toà án hỏi thêm bị can, bị cáo hoặc người làm chứng. Để thu thập thông tin, chuyên gia giám định có thể đề nghị Toà án cho tiếp cận hồ sơ vụ án, có mặt trong giai đoạn thẩm vấn và tự đặt câu hỏi (Điều 80). Tuy nhiên, chuyên gia giám định không có quyền tự tiến hành hoạt động điều tra.

Người bị hại

Người bị hại là nạn nhân của tội phạm trước đây có vai trò không đáng kể trong tố tụng hình sự Đức. Về mặt hình phạt của tội phạm, lợi ích của họ được coi là phụ so với lợi ích công chúng và vai trò của họ đơn thuần chỉ là nguyên đơn kiện bồi thường về các thiệt hại dân sự. Địa vị pháp lý của người bị hại đã được cải thiện một cách đáng kể với sự ra đời của Luật Bảo vệ nạn nhân năm 1986 mà theo đó Luật tố tụng hình sự cũng đã được sửa đổi. Sự tham gia của người bị hại trong tiến trình tố tụng được quy định thành một phần riêng (Phần V) trong Bộ luật tố tụng hình sự. Người bị hại của các tội phạm nghiêm trọng được bảo vệ tốt hơn và được bổ sung một số quyền của một bên tham gia tố tụng: quyền được thông tin về tiến trình tố tụng (Điều 406), quyền tiếp cận hồ sơ (Điều 406e), quyền được trợ giúp pháp lý (Điều 406f), quyền khởi tố lại và quyền được bồi thường thiệt hại do tội phạm gâyra. Người bị hại của tội phạm nghiêm trọng có thể tham gia tích cực vào tiến trình tố tụng với vai trò phụ cho Công tố viên. Đời tư cá nhân của họ được bảo vệ. Toà án có thể tổ chức nghe riêng khi những vấn đề liên quan đến người bị hại còn đang gây tranh cãi và họ có quyền phản đối những câu hỏi liên quan đến đời tư của mình. Bị hại có thể đưa ra yêu cầu truy tố các tội phạm (quyền tư tố) mà không cần phải nhờ cơ quan công tố truy tố. Công tố viên không bắt buộc phải tham gia vào thủ tục tư tố. Cơ quan công tố chỉ truy tố chỉ khi việc truy tố đó liên quan đến lợi ích công (Điều 376). Điều 374 BLTTHS quy định danh mục các tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự mà bị hại có quyền tư tố, đó là các tội xâm phạm gia cư bất hợp pháp, tội xúc phạm nhân phẩm, vi phạm quyền tự do báo chí, tội gây thương tích, đe doạ, nhận hoặc đưa hối lộ trong những giao dịch kinh doanh, bị thiệt hại về tài sản đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự và các tội phạm khác về Lụât chống cạnh tranh không công bằng, Luật về bằng sáng chế, Luật về thiết kế, Luật về quyền tác giả…Nếu người bị hại có đại diện theo pháp luật thì quyền yêu cầu tư tố sẽ do họ thực hiện. Nếu bên bị hại là một tập đoàn, một công ty hoặc một tổ chức khác thì có thể khởi kiện tranh chấp dân sự thông qua người đại diện của họ. Cùng với người bị hại hoặc thay mặt cho người bị hại, người có quyền đưa ra yêu cầu truy tố hình sự cũng có thể đưa ra yêu cầu tư tố.  Tư tố viên tư có thể được hỗ trợ hoặc được đại diện bởi một lụât sư chỉ định trong phạm vi thẩm quyền của luật sư đó.  Tư tố viên tư có quyền đưa ra yêu cầu bảo đảm về chi phí dự kiến phát sinh cho bị cáo (tương tự áp dụng đối với nguyên đơn dân sự). Việc bảo đảm có thể bằng đặt cọc tiền mặt, cổ phiếu hoặc trái phiếu. 


Chủ đề liên quan: